top of page
Hung Tran
Jun 23, 2023
Tiến sĩ W. M. Turnbull, Phó Hội trưởng Hội Truyền Giáo Phúc-Âm Liên Hiệp đã nói rằng:...
Lịch Sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam
I. Giai đoạn tiên khởi.
Tiến...
...sĩ W. M. Turnbull, Phó Hội trưởng Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp đã nói rằng: “Bất cứ nơi nào mà việc truyền giáo bị khóa chặt, nghĩa là một nơi chưa được nghe rao giảng Tin Lành của Đấng Christ, thì sẽ thấy giáo sĩ thuộc Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp đến đóng trại trước ngạch cửa để chờ đợi, hễ có cơ hội là bước vào,” câu nói đó rất đúng với trường hợp nước Việt Nam. Tại Đông Dương thuộc Pháp, Việt Nam là mục tiêu đầu tiên của Tiến sĩ A. B. Simpson ngay từ khi ông mới sáng lập Hội Truyền Giáo Phúc-Âm Liên Hiệp năm 1897. Các giáo sĩ của Hội Truyền Giáo Phúc-Âm Liên Hiệp ở miền nam Trung Hoa luôn luôn hướng tầm mắt vào Việt Nam.
Năm 1887, Tiến sĩ A. B. Simpson đã viết trong tờ tạp chí "Word and World" như sau: “Miền Bán đảo Đông Nam Á đã bị quên lãng từ lâu. Quốc gia Việt Nam cần được soi sáng Tin Lành của Đấng Christ. Tại sao những người phục vụ Cứu Chúa không đặt Việt Nam ngang hàng với Tây Tạng, thiết lập chiến trường thuộc linh mới, hầu tranh thủ nhiều linh hồn tội nhân về với Ngài.”
Mùa hè năm 1893, Tiến sĩ David Leclaccheuz, cộng sự viên của Tiến sĩ Simpson đến thăm Sàigòn. Khi trở về, ông đã tường trình và cho biết cánh cửa tại Việt Nam cũng như toàn xứ Đông Dương thuộc Pháp đã mở cho việc giảng Tin Lành. Qua năm sau, Tiến sĩ Simpson cho biết rằng Sudan, Tây Tạng và Việt Nam là ba địa hạt truyền giáo quan trọng chưa được khai thác để qui sự vinh hiển về cho Cứu Chúa.
Tuy nhiên, mãi đến năm 1897 mới chỉ có một giáo sĩ của Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp được phép bước chân vào Đông Dương thuộc Pháp để thăm viếng và chỉ vỏn vẹn thăm viếng mà thôi, không được truyền giáo. Đó là Giáo sĩ C. H. Reeves, từ Long Châu vượt biên giới Hoa Việt vào miền Bắc rồi đến Lạng Sơn. Khi trở về, ông đã phúc trình với Giáo Hội: “Tôi được các sĩ quan và binh sĩ Pháp tiếp đãi rất lịch sự. Họ ở đây rất đông, nơi nào có độ một trăm người dân thì có một đồn lính. Trong suốt thời gian ở miền Bắc, tôi được các binh sĩ Việt Nam và Pháp hộ tống.”
Năm 1889, Giáo sĩ R. A. Jaffray tuy là tân Giáo sĩ ở miền nam Trung Hoa, nhưng lại đóng một vai trò rất đắc lực trong việc mở mang rao giảng Tin Lành tại Đông Dương. Giáo sĩ Jaffray cũng vượt biên giới Hoa-Việt theo cách của Giáo sĩ Reeves, đi đường thủy theo sông Hồng-hà xuống tận thủ đô Hà-nội. Nhưng ông cũng chưa đặt được điểm tựa nào cho công việc truyền giáo. Năm 1901, ông về nghỉ hạn ở Mỹ, ông tìm gặp ông bà Lylvan Dayan người Gia-nã-đại thuộc Pháp, với hy vọng đề cử ông bà này sang Việt Nam, vì người nói tiếng Pháp vào xứ thuộc Pháp dễ dàng hơn người nói tiếng Anh. Sau đó Hội Truyền giáo sai phái ông bà Dayan qua Việt Nam. Năm 1902, họ vào hải cảng Hải Phòng với kế hoạch nhằm mở một trụ sở giảng Tin Lành tại Bắc kỳ, nhưng vì tình thế chưa thuận tiện, năm sau họ phải trở lại Trung-hoa.
Vào năm 1905, tỉnh Long Châu, thuộc địa hạt Hoa Nam, được dùng làm trung tâm truyền giáo. Họ hy vọng trạm này có thể dùng làm bàn đạp để đưa Tin Lành vượt biên giới Hoa Việt vào miền bắc Việt Nam. Nhưng về sau Hội Truyền Giáo nhận thấy cách nầy chỉ có thể giảng Tin Lành cho những người di cư sang lập nghiệp ở Trung Hoa, chứ không giảng trực tiếp cho dân tộc Việt-nam được. Vả lại người Pháp cũng không thích để Hội Truyền Giáo đi vào cửa sau bằng cách ấy, nên họ đã cho phép giáo sĩ vào một trong các hải cảng lớn ở Việt Nam.
Đến mùa xuân năm 1911, các Giáo sĩ R. A. Jaffay, Paul M. Hosler và G. Lloyd Huglers đến hải cảng Tourane, ở Trung phần Việt Nam. Họ mua được một cơ sở ở góc đường Khải Định, số 66 và đường Nguyễn Hoàng, số 67 để làm trụ sở truyền giáo, đó là trụ sở đầu tiên của hội. Sau khi hoàn tất công tác, họ trở lại Trung-hoa. Giáo sĩ Jaffray không được phép làm giáo sĩ thường xuyên tại Việt Nam, Giáo sĩ Huglers được gọi về Nữu-ước để lảnh nhiệm vụ cao trọng hơn nên chỉ còn Giáo sĩ Hosler trở lại Đông Dương một mình. Ông khởi sự học tiếng Việt và đồng thời bắt đầu giảng Tin Lành. (Trích quyển Bốn mươi sáu năm chức vụ, hồi ký của Mục sư Lê Văn Thái).
II. Sự thành hình của Hội thánh Tin Lành Việt Nam.
Công việc gần như bị ngưng lại khi người Pháp trục xuất 5 trong số 9 giáo sĩ vào cuối năm 1915. Qua năm 1916, Giáo sĩ R. A. Jaffray, đại diện Hội Truyền Giáo vùng nam Trung Hoa và Đông Dương được quan Tổng Đốc Toàn Quyền hứa cho truyền giáo ở Đà-nẵng, Hà-nội, Hải-phòng và ở miền Nam. Với số giáo sĩ khoảng 12 người, Hội Truyền Giáo đã mở các chi nhánh ở Hà Nội (1916) và Hải Phòng (1918) ở miền Bắc; Sài-gòn (1918), Sa-đéc (1922), Châu-đốc (1922), Cần-thơ (1922), Vỉnh-long (1926) và Biên-hòa (1926) ở miền Nam; Phnom-penh (1923) và Battambang (1923) ở Căm-bô-chia.
Sau 16 năm hoạt động, kết quả đầu tiên gặt hái được vào tháng 3 năm 1927: 74 Hội thánh với 4.236 tín đồ rải rác từ miền Bắc, Trung, Nam Việt-nam và Cam-bô-chia đã kết hợp với nhau thành Hội Tin Lành Đông Pháp (Evangelical Church of French Indochina). Vào năm 1936, khi nội quy của Hội thánh được tu chính lần đầu tiên, danh hiệu được thay đổi là Hội Tin Lành Việt Nam Đông Pháp. Sau đệ nhị thế chiến, danh từ Đông Pháp được bỏ đi. Vào năm 1950, theo quyết nghị của Hội Đồng Tổng Liên, danh xưng được đổi lại là Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Cũng nên chú ý rằng ngay từ đầu, các tín hữu Việt Nam với tinh thần tự lập rất cao, thay vì dùng tên chung là Hội Phúc-Âm Liên Hiệp như các quốc gia khác, đã dùng danh xưng là Hội Thánh Tin Lành (Evangelical Church).
Bắt đầu từ năm 1924, mỗi năm đều có Hội đồng tại Tourane để khuyến khích, giúp đỡ sự tăng trưởng thuộc linh của các tín đồ và tôi tớ Chúa người Việt-nam. Năm 1927, Hội đồng cũng nhóm họp ở Tourane từ ngày 5 đến ngày 13 tháng 3 với lớp mãn khoá đầu tiên của Trường Kinh Thánh Tourane (Đà-nẵng). Hội đồng này đã quyết định kết hợp các Hội thánh ở miền Bắc, Trung, Nam và Cam-bô-chia như trên. Có 50 đại biểu, trong đó có 4 chấp sự, đại diện cho 7 Hội thánh tự trị tự lập và 60 Hội thánh chi nhánh. Các đại biểu bàn luận việc soạn thảo nội qui, nâng cao cương vị của Giáo hội, tìm cách để chính quyền thừa nhận. Cùng với 70 người tham dự cả nam lẫn nữ, các đại biểu đã dâng một số tiền tổng cộng là 148 đồng 80 xu cho các chi phí của Hội đồng. Hội đồng cũng quyết định kêu gọi các Hội thánh địa phương dâng hiến 5.000 đồng để xây cất cư xá cho các sinh viên và các cơ sở khác của Trường Kinh Thánh Tourane. Ban chấp hành lâm thời, nhiệm kỳ một năm, gồm Mục sư Hoàng Trọng Thừa, Hội trưởng; Mục sư Trần Dỉnh, Phó Hội trưởng, Mục sư Dương Nhữ Tiếp, Thơ ký; Ông Trần Thành Long, Thủ quỷ; và Mục sư Lê Văn Long, hội viên. Hội đồng cũng đề cử một ban để hoạt động chung với Ban truyền giáo của Giáo hội C&MA, ban truyền giáo này gồm có các Giáo sĩ J. D. Olsen, E. F. Irwin, W. C. Cadman, D. I. Jeffrey và I. R. Stebbins (thân phụ của Giáo sĩ Thomas Stebbins, Tôn Thất Bình).
Năm 1928, Hội đồng tái nhóm, chấp thuận một nội quy đầu tiên của Giáo hội với 37 chương và 156 phần. Trong đó Hội dồng chấp thuận nguyên tắc bốn giáo lý (doctrines) biểu hiệu bởi bốn dấu hiệu: Thập tự giá, Chim bồ câu, Bình nước và Mão triều thiên vẫn còn dùng cho đến ngày nay.
III. Sự bắt bớ đạo Tin Lành.
Điều quan ngại nhất của Ban Chấp Hành là việc giao tiếp của Hội Tin Lành Đông Pháp thời ấy với Triều Đình Việt Nam và chính quyền người Pháp. Nhiều cản trở trong hoạt động của các giáo sĩ Hội Truyền Giáo Phúc-Âm Liên Hiệp (C&MA) và sự cấm chỉ giảng đạo trong thập niên 1920 của Triều Đình Việt Nam đã được vua Bảo Đại tiếp tục theo đuổi. Vào ngày 26 tháng giêng năm 1928, Hội Đồng Cơ Mật của nhà vua đã ra chỉ dụ cho các quan địa phương như sau:
“Theo phần thứ 13 của hòa ước năm 1884, chỉ có Giáo Hội Công Giáo mới có quyền giảng đạo ở Việt Nam mà thôi. Các giám mục, linh mục, giáo chức thuộc Giáo Hội Công Giáo La Mã là những người duy nhất được giảng dạy. Chúng tôi được biết gần đây có một tôn giáo mới, cũng như đạo Cao Đài ở miền Nam. Khi những tôn giáo này bành trướng thêm lên, sẽ có nhiều người lợi dụng, tạo các khó khăn trong đất nước và nhiều người có thể bị lường gạt như trường hợp của Võ Trụ và Trần Cao Vân trong năm qua. Những người này lợi dụng danh nghĩa tôn giáo nhưng sự thật họ chỉ xúi giục dân chúng nổi dậy. Biết bao dân lành đã chịu khổ vì họ! Vì vậy từ nay tôn giáo mới và đạo Cao Đài phải bị cấm truyền giảng tại địa phương hay lưu động ở Việt Nam. Nếu ai bất tuân chỉ dụ này, phải trừng phạt người ấy theo như luật định.
Quan Khâm sứ đã đồng ý về vấn đề này. Hội Đồng Cơ Mật truyền chỉ dụ để quý vị rỏ và thi hành.
Huế, ngày thứ tư, tháng thứ nhất, năm thứ ba của Hoàng đế Bảo Đại. Ấn tín của Hội Đồng Cơ Mật.”
Sau đó hai tháng, vào tháng ba năm 1928, quan toàn quyền miền bắc gởi cho Giáo sĩ Cadman thông tư như sau: “Tôi được biết Hội Truyền Bá Phúc Âm Liên Hiệp bổ nhiệm ông trong chức vụ truyền giáo ở nhiều thị trấn miền Bắc và nhất là ở Nam Định. Trái với tinh thần hòa ước năm 1874 và năm 1884 giữa chánh phủ Pháp và Hoàng Đế nước Việt Nam, tôi có nhiệm vụ khuyên ông nên sớm chấm dứt sự giảng đạo của ông.”
Tuy nhiên những mục sư ở các thành phố miền Bắc không gặp trở ngại vì Hội Đồng Cơ Mật đã nhượng quyền ở miền Bắc trong nhiều năm và hoạt động truyền giáo Tin Lành ở đây lúc này không được mạnh mẽ lắm. Kế hoạch bắt giữ Mục sư Lê Văn Thái ở Hà-nội khi ông đến làng Gia Thượng, tỉnh Bắc Ninh đã thất bại vì ông Lý trưởng được chỉ thị này là một người mới tin Chúa cho nên ông chỉ cho lính ngăn chận buổi nhóm và trục xuất Mục sư Thái khỏi làng. Dầu vậy Mục sư vẫn trở lại những tuần sau để truyền giảng. Việc chánh quyền địa phương miễn cưỡng ra lệnh cấm dân chúng tham dự chỉ làm cho nhiều người tò mò đến càng đông hơn. Vào một ngày Chúa nhật nọ, khi các tín đồ đang nhóm thờ phượng thì một viên chức người Pháp dẫn quân lính và các dân làng võ trang bao vây giáo đường. Sau khi giảng dạy xong, Mục sư Thái và Giáo sĩ Cadman ra chào vị sĩ quan người Pháp, có lẽ ông này đổi ý nên nói rằng ông muốn chắc chắn rằng chỉ có tín đồ tham dự buổi thờ phượng mà thôi và ông ra lệnh cho các dân làng không phải là tín đồ kể cả các người võ trang giải tán.
Ở miền Trung, không những chỉ dụ trên được gởi đến các viên chức địa phương, mà còn được công bố và dán ở các nơi công cộng, chợ búa, các nhà thờ, giảng đường. Ở Nha-trang chẳng hạn, viên Tổng đốc đã ra một chiếu chỉ tương tợ như trên. Mục sư Phan Đình Liệu, đã bị bắt tại Quảng-nam vào năm 1925, lại bị bắt lần thứ hai bởi vị chỉ huy quân sự người Pháp và giải đến quan Toàn quyền. Ông này thả Mục sư Liệu ra và cho ông trở về Nha-trang. Ông bảo đảm với Mục sư Liệu rằng: “người Pháp sẽ không bắt bớ đạo Tin Lành.” Tuy nhiên Mục sư Liệu đã bị vào tù lần nữa vào mùa hè năm 1928 vì đã cãi lịnh không chịu gỡ bảng hiệu Hội Tin Lành Việt Nam trước giảng đường ở Nha-trang. Khi ông ra Phan-rang để giảng, ông bị bắt giải đến Quan Toàn Quyền và được khuyên nên vô trong Nam để có thể giảng đạo tự do hơn. Trong buổi hiệp nguyện ở Nha Trang Thành (tỉnh Khánh-hòa), Mục sư Liệu lại bị bắt lần thứ tư, sáu tín đồ cũng bị đánh đập và lưu giữ. Họ được thả ra sau khi Mục sư Liệu chấp nhận tất cả trách nhiệm của buổi nhóm.
Sau khi giam giữ ông 2 tuần mà không xét xử, quan địa phương ra lệnh trục xuất ông ra Quảng-nam. Sau khi ở Quảng-nam một thời gian ngắn, Mục sư Liệu đi Mỹ-tho để dự Hội Đồng Tổng Liên. Ông không dự được vì khi đến Nha-trang, ông bị bắt vì đã rao giảng Tin Lành, ông bị kết án 6 tháng tù khổ sai. Mục sư Liệu dùng thời gian này để dịch các tài liệu Cơ-đốc từ tiếng Tàu và ông đã giúp được 2 người lính và 12 tội nhân trở về cùng Chúa. Ông vào Nam để đi đây đi đó giảng Tin Lành cho đến năm 1935, ông trở lại miền Trung khi việc cấm chỉ này không còn nữa.
Ở Quảng Ngãi, hai nhà truyền giáo trẻ tuổi là Mục sư Ông Văn Huyên và Đặng Ngọc Cầu đã bị bắt ở đảo Lý-sơn giải về quê ở Quảng-nam. Các người này bị kết án 3 tháng tù khổ sai vì đã cãi lệnh Triều đình. Họ được phóng thích sau khi đã đóng nộp tiền phạt. Khi các nhà truyền giáo và các giáo sĩ lưu động bị bắt giam, tín đồ “bị hăm dọa và được lệnh đốt Kinh Thánh”. Giáo sĩ Travis ở miền nam Trung phần tường trình rằng nhiều người giấu Kinh Thánh, nhiều người khác yếu đuối hơn đã đốt quyển sách này, một số khác nữa viện lẽ ấy bỏ quyển sách mà họ đã tình cờ mua. Ở miền trung Trung phần, chính quyền vào nhà dân chúng tịch thâu Kinh Thánh, bắt tín đồ phải ký giấy bỏ đạo. Cùng với quý vị mục sư, số tín đồ bị bắt không phải là ít. Ở Tam-kỳ, tỉnh Quảng-nam, dầu rằng những người theo đạo bị bắt bớ rất nhiều, ông Lý trưởng đã theo đạo và đã tường trình tốt đẹp về Tin Lành mỗi khi ông được triệu hỏi bởi các quan trên, vì thế đã giúp cho các con cái tôi tớ Chúa tránh nhiều sự bắt bớ.
Chỉ dụ của Hội Đồng Cơ Mật của nhà vua ngày 26 tháng giêng năm 1928 đã gây nhiều khó khăn cho cộng đồng Tin Lành ở Việt Nam và đã tạo tiếng vang ở Pháp. Mục sư Calas của Hội thánh Tin Lành Pháp ở Hà-nội và là đại diện của Hội Kinh Thánh Đông Nam Á đã mạnh dạn phản kháng với chính quyền rằng ông không được thông báo kịp thời về những việc bắt bớ tín đồ, việc cản trở truyền giáo và những sự việc đáng tiếc khác vì không có sự liên lạc giửa các nhà thờ nhỏ ở các địa phương hẻo lánh với ông. Trên thực tế, hầu như không có hợp tác gì giữa hai nhóm Tin Lành người Việt Nam và người Pháp.
Khi Mục sư Lê Văn Thái đến đề lao Khánh-hòa thăm Mục sư Phan Đình Liệu và tặng Mục sư Liệu chiếc lò dầu lửa (rề-sô), bà Giáo sĩ Cadman đứng bên kia đường chụp được tấm hình. Sau đó, bà viết bài tường thuật gởi cho một nghị sĩ ở Quốc hội Pháp và cho đăng hình lên các báo ở ngoại quốc kèm theo tấm hình làm bằng cớ rằng Tin Lành bị bắt bớ, mục sư bị tù đày tại Việt Nam... Nhân dịp Pierre Pasquier, Quan Thống đốc Toàn quyền Pháp mới nhậm chức vào tháng giêng 1929, các vị lãnh đạo Tin Lành Pháp cũng đã lưu ý ông về vấn đề này. Cùng lúc đó, Hiệp Hội Tin Lành Pháp đã tạo áp lực với Quốc Hội đòi hỏi sự tự do tín ngưỡng ở vùng Đông nam Á trong lúc nước Pháp đang có khuynh hướng chính trị không muốn chính quyền can thiệp vào tôn giáo. Mãi đến tháng 12 năm 1929, quan nhiếp chánh của Hoàng đế và Khâm sứ Jabouille đã cùng ký một sắc lệnh rằng:
“Các mục sư Tin Lành Pháp không bị hạn chế trong việc thờ phượng và truyền giảng Tin Lành.”
Một giấy phép sơ khởi sẽ được cấp cho các hội truyền giáo ngoại quốc thuộc mọi tín ngưỡng, và các hàng giáo phẩm ngoại quốc thuộc mọi tín ngưỡng.
Đơn xin phép sẽ do các đương sự đệ nạp cho Tòa Khâm Sứ và được xét tại cuộc họp của Viện Cơ Mật để đệ trình lên Hoàng Thượng duyệt xét, hay quan Phụ Chánh duyệt xét, nếu Hoàng Thượng còn vị thành niên. Quyết định sẽ được trao cho Tòa Khâm Sứ ban hành.
Trên thực tế, sắc lệnh này cho phép các nhà truyền giáo và người phụ tá địa phương hoạt động ở khu vực mình mà thôi nếu họ được cấp giấy phép. Giấy phép này không phải là dễ xin, nhất là khi đổi đến nơi khác. Một thí dụ điển hình là khi một truyền đạo đến Quảng-ngãi, ông được cấp giấy phép giảng dạy ở đó. Tuy nhiên sau gần một năm, ông phải về trường học tiếp, người thay thế ông là một Mục sư thực thụ đã được tấn phong không được phép giảng dạy, viện lý lẽ là có hoạt động chính trị trong vùng. Ông chỉ được cho phép nhóm họp khi có giáo sĩ ngoại quốc đến mà thôi. Vì không có giáo sĩ ở Quảng Ngãi, giáo sĩ ở Tourane đã phải phụ trách nhiều Hội thánh chung quanh, ông không thể nào di chuyển 120 cây số để đến Quảng-ngãi mỗi Chúa Nhật được. Khi không có Giáo sĩ hiện diện, cảnh sát được phái đến ở trước nhà thờ để được chắc chắn rằng không có sinh hoạt thờ phượng ở đó. Tình trạng được thay đổi khi có một nhân viên ngoại giao cao cấp của Pháp qua đời, gia đình muốn được an táng theo nghi lễ Tin Lành vì ông là người có đạo nhưng không có mục sư trong vùng nên quan Tổng đốc phải đề nghị cho phép một mục sư đến lo việc Hội thánh. Từ đó về sau, chính quyền Việt Pháp địa phương mới dễ dãi cho.
Vào năm 1943, khi Mục sư Nguyễn Xuân Diệm ở Thăng Bình tỉnh Quảng-nam được sự chấp thuận của quan Tổng đốc, được Quan Tổng Đốc Toàn quyền phê chuẩn thuận, lại phải qua sự điều tra của Bộ Nghi Lễ rồi mới được sự chấp thuận của Hoàng Đế. Sau đó các quan địa phương được lần lượt thông báo xuống từ Thủ Tướng, đến thượng thư Bộ Nghi lễ, đến quan Tổng Đốc, rồi mới tới các quận trưởng quận Thăng-bình và Tam-kỳ với chỉ thị phải bí mật theo dõi mục sư và rút giấy phép lại nếu ông mục sư vi phạm các điều luật. Vào năm 1944, Mục sư Diệm xin phép mở nhà thờ chi nhánh ở Tiên-quả và Thượng Thanh quận Tam-kỳ, lần này viên Khâm sứ miền Trung thay mặt chính phủ ký giấy chấp thuận, chuyển xuống Tổng đốc Quảng-nam và Quảng-ngãi để tường với chỉ thị bí mật theo dõi và báo cáo các vi phạm luật lệ. Hệ thống quan liêu để xin giấy phép này được tiếp tục áp dụng cho đến Cách mạng tháng tám năm 1945.
Trên lãnh vực quốc gia, Ban chấp hành Hội Tin Lành Việt Nam đã cố gắng đòi hỏi để được sự chấp nhận của chính phủ như là một giáo hội ngang hàng với Công giáo nhưng đã thất bại ít nhất 3 lần. Năm 1942, để tỏ thái độ thiện cảm với Hội Thánh Việt Nam sau khi miền nam bị Nhật chiếm, Quan Toàn quyền Jean Decoux gởi một bức thơ cho Mục sư Hội trưởng Lê Đình Tươi nhìn nhận thành phần Ban Quản Trị Tài Sản Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Hội Tin Lành Việt Nam chưa từng được chính quyền Việt hay Pháp thừa nhận như đã thừa nhận Giáo Hội Công Giáo từ năm 1884, tuy vậy những sự bắt bớ đạo Tin Lành không chi so sánh với sự bắt bớ của Công giáo dưới thời vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Những sự thử thách này đã khiến cho cả đạo Công giáo lẫn Tin Lành thêm vững đức tin, khiến nhiều người biết đến và giúp cho sự bành trướng của tôn giáo thêm mạnh mẽ.
IV. Các khó khăn khác và sự tự trị, tự lập.
Rút tỉa kinh nghiệm ở các nước khác, Hội Truyền Giáo Phúc-Âm Liên Hiệp đã cố gây dựng Hội Thánh Việt Nam để có thể đạt đến tình trạng tự trị tự lập càng sớm càng tốt. Đa số tín đồ Việt Nam là những người bình dân, một số nhỏ là công chức. Năm 1928, chỉ có 10 trong số 80 Hội thánh tự trị tự lập, số này tăng lên gấp đôi vào năm 1930 và gấp bốn lần vào năm 1932. Vào Thế Chiến Thứ Hai, 75% hội thánh đạt đến tự trị tự lập, các mục sư của các hội thánh còn lại được tín đồ trợ cấp rất ít, phải cần sự giúp đở của Hội Truyền Giáo. Vào năm 1942 khi mật vụ của Nhật bắt giam các giáo sĩ ở Mỹ-tho, tất cả các Hội thánh đều tự túc với chương trình tương trợ giữa các hội thánh địa phương và các Địa hạt trong giai đoạn nầy.
Trong Đệ Nhị Thế Chiến, tình hình tài chánh suy giảm, các viên chức Hội Truyền Giáo cho biết là Hội không có khả năng giúp đỡ các hội thánh đang thiếu hụt được, họ khuyên quý mục sư hãy nhờ cậy Chúa trong đức tin, nếu họ muốn, họ có thể đóng cửa nhà thờ và trở về nghề cũ. Tuy nhiên đại diện của Hội Truyền Giáo miền Nam tường trình rằng không một hội thánh nào phải đóng cửa vì có một ngân quỷ trong đó các hội thánh tự lập đã giúp các hội thánh khác đang gặp khó khăn.
Ở miền Bắc, vào năm 1942, có khoảng một ngàn tín đồ đã chịu phép báp-têm, 28 mục sư và truyền đạo với 27 nhà thờ và 30 chi nhánh. Trong đó chỉ có 4 nhà thờ tự lập. Giáo hội đã phải đóng cửa 11 nhà thờ và có thể phải đóng cửa trên 80 % các nơi nhóm họp vì có nhiều người tị nạn từ miền nam Trung quốc khiến ngân quỷ giáo hội bị thiếu hụt. Vào tháng hai năm 1942, Mục sư Lê Văn Thái, Chủ nhiệm Bắc hạt, được mời tham dự kỳ Hội đồng Địa hạt miền Nam tại Cần Thơ thay thế cho Mục sư Hội trưởng Lê Đình Tươi bị bệnh. Ông đã từ chối lời mời vì tình trạng khẩn trương ở đây. Nhưng trong giấc chiêm bao, ông được khải thị về sự yêu thương và tương trợ của các con cái Chúa, ông liền nhận lời. Vào Nam, ông được các tín hữu, tôi tớ Chúa giúp đỡ từ chiếc áo choàng, đôi bông tai, đến đôi giày, đồng hồ, viết máy và tiền mặt... y như điều ông thấy trước trong giấc chiêm bao. Trên đường về Bắc, ông có ghé dự Hội đồng Địa hạt miền Trung và Trường Kinh Thánh Tourane (Đà-nẵng). Nơi nào ông đến, ông cũng được mọi người hết lòng chia xẻ và giúp đỡ. Khi trở về Hà-nội, Mục sư Thái mang bốn va-ly chứa đầy tặng vật. Hội Thánh Hà Nội liền phát động chiến dịch mua lại các tặng vật để gởi trả cho người dâng. Việc nầy đã được tín hữu ở đây và các vùng phụ cận hưởng ứng nhiệt liệt. Các tín hữu tranh nhau mua những món đồ tầm thường với giá rất cao, mong sao hành động của mình xứng với lòng hy sinh tốt đẹp của các tín hữu miền Trung và Nam. Nhờ việc bán đấu giá lạ lùng nầy mà Bắc hạt có đủ tiền để trang trải những nhu cầu cấp bách lúc đó. Vì thế những tín đồ miền Trung và Nam đã dâng hiến đều được các kỷ vật gởi trả lại cho mình. Một Giáo sĩ đã viết lại sự tương trợ của các con cái Chúa trong thời gian này như sau: "Dầu rằng các tín đồ rất nghèo và rất muốn lưu giữ các kỷ vật của mình, vì thế những sự dâng hiến và giúp đỡ này rất đáng phâm phục. Giống như những tín đồ ở Ma-xê-đoan, họ đã tự ý quyên tiền theo sức mình, hoặc cũng quá sức nữa... (II Cô-rinh-tô 8:3)"
Ở miền Trung, Hội thánh đã chịu ảnh hưởng nặng nề nhất trong thời kỳ chiến tranh: có một số nhà thờ phải đóng cửa và nhiều mục sư phải trở lại nghề cũ để lo sinh kế cho gia đình. Nhiều mục sư kiên trì trong chức vụ phải mắc nợ lâu dài và gia đình lâm vào cảnh đói kém.
Trong cuộc thế chiến thứ hai này, các giáo sĩ được lệnh di tản về nước hay qua Phi-luật-tân. Tuy nhiên trong số 74 vị ở vùng Đông Nam Á, có 68 người liều mình ở lại, họ được tòa đại sứ Thụy-sĩ giúp đỡ. Nhiều giáo sĩ lợi dụng thời gian bị bắt để soạn các bộ sách rất có giá trị cho chúng ta như quyển Kinh Thánh Tự Điển của Giáo sĩ Cadman, quyển Thần Đạo Học và những sách khác được Giáo sĩ Olsen nhuận chánh. Sau khi lật đổ chính quyền Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945, người Nhật bắt đầu đối xử tàn tệ với các nhà truyền giáo. Giáo sĩ Franklin Grobb là người duy nhất đã qua đời trong lúc bị giam giữ vì họ không cho phép vợ ông mang ông đến bệnh viện phía bên kia đường đối diện trại giam để trị chứng viêm ruột dư và màn bụng cấp tính. Sau khi người Nhật đầu hàng, tất cả các Giáo sĩ đều được trở về nước ngoại trừ ông bà E. F. Irwin, ông bà W. C. Cadman và ông D. I. Jeffrey. Đến tháng 11 năm 1945, chỉ có gia đình Giáo sĩ Cadman ở lại. Sau khi bà về với Chúa vào tháng 4 năm 1946, Giáo sĩ Cadman là giáo sĩ độc nhất tại Việt Nam trong 10 tháng. Ông nói: “Các anh em trong Chúa ở đây đang gặp hiểm nguy, chúng ta không thể bỏ họ đơn cô, chúng tôi quyết định ở lại với họ.”
Trong thời gian nạn đói năm 1944-45, có gần 2 triệu đồng bào, đa số ở miền Bắc, phải chết vì không có thực phẩm. Tuy nhiên, không có một tín đồ nào bị chết đói mặc dầu họ rất nghèo và hết lòng cung ứng cho mục sư của họ. Mục sư Thái cho biết trong thời gian này sự dâng hiến (cộng chung với sự giúp đỡ của các anh em miền Trung và miền Nam) cho Địa hạt miền Bắc đã tăng lên gấp 4 lần.
Vì chủ trương không tham gia chính trị của Giáo Hội, nhiều tín đồ đã bị bắt bớ vì sự nghi kỵ của hai bên nhất là trong thời gian chiến tranh. Vào năm 1948, số giáo sĩ ở miền Bắc tăng lên đến 5 người, số nhà giảng, buổi thờ phượng và số người chịu phép báp-têm đều gia tăng. Các hội thánh miền Trung gần trận tuyến phải đóng cửa, mục sư và tín đồ di tản. Các hội thánh còn lại vẫn trung tín hoạt động. Số tín đồ được gia tăng như ở Đà-nẵng, có 67 người gia nhập Hội thánh trong năm 1950. Ở trong Nam, có gần 30 nhà thờ bị đóng cửa, nhiều nơi bị san bằng hay bị chiếm đóng. Nhiều mục sư vì thế phải bị thiếu thốn, nợ nần có khi phải tìm việc khác mưu sinh.
V. Giai đoạn phục hồi và tăng trưởng.
Sau trận chiến ở Điện Biên Phủ và việc ký hiệp định Genève, Việt Nam bị chia ra làm hai miền. Hiến pháp năm 1960 của miền Bắc khẳng định những nhân quyền căn bản của nhân dân như trong hiến pháp năm 1946: “Nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được quyền tự do tín ngưỡng; mọi người đều có quyền theo đạo hoặc không theo đạo.” Hiến pháp của miền Nam thừa nhận mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng, hành đạo và theo đạo miễn là sự tự do này không đi ngược lại với luân thường đạo đức.
Giáo hội miền Bắc được đổi tên là “Hội Thánh Tin Lành Việt Nam Miền Bắc” gồm vài ngàn tín đồ với hai chục hội thánh, 13 mục sư và truyền đạo. Giáo hội miền Nam vẫn giữ danh hiệu Hội Thánh Tin Lành Việt Nam vì trên 90 phần trăm tín hữu ở trong Nam. Vào năm 1962, Địa hạt miền Trung được chia ra làm Bắc Trung phần trụ sở ở Đà Nẵng và Nam Trung phần trụ sở ở Nha Trang. Đến năm 1969 Địa hạt miền Nam được chia ra làm Đông Nam phần với văn phòng ở Sài Gòn và Tây Nam phần ở Vĩnh Long. Năm 1960, Địa hạt Thượng du được thành lập để cung ứng nhu cầu đặc biệt cho đồng bào thiểu số.
Trong kỳ Hội Đồng Tổng Liên năm 1955, mặc dù có một nhóm người tố cáo muốn lật đổ Mục sư Hội trưởng Lê Văn Thái, Hội Đồng cũng đã quyết định những việc quan trọng sau đây:
Hội Đồng chấp thuận liên hợp với những tổ chức truyền giáo đồng chung niềm tin để đẩy mạnh việc truyền giảng trong nước. Cơ quan đầu tiên được tiếp xúc là Hội Cứu Thế Quân (the Salvation Army), sau đó là những cơ quan truyền giáo như: The Navigator (1955), The Overseas Crusades (1956), Hội dịch Kinh Thánh Wycliffe (1957), Cơ Đốc Truyền Giáo Hội hay The Worldwide Evangelization Crusade (1957), Hội Truyền Giáo Mennonite (1957), Giáo Hội Báp-Tít Nam Phương (1959), Hội Ái Hữu Sinh Viên Cơ Đốc (1959), Giáo Hội Đấng Christ (1960), The Scripture Union (1962) và các cơ quan nhỏ khác.
Lần đầu tiên Hội Đồng cứu xét việc bổ nhậm phụ nữ để giảng dạy.
Gởi sinh viên ra hải ngoại để được huấn luyện về thần học hay các ngành chuyên môn khác.
Hội Đồng cũng quyết định đẩy mạnh công tác xã hội đã được đề ra từ năm 1932. Với sự giúp đỡ của nhiều cơ quan, Giáo Hội cũng đã trợ cấp cho nhiều hội thánh xây cất lại. Theo thống kê năm 1971, tổng cộng Giáo Hội có 6 cô nhi viện và một nhà dành cho quả phụ.
Thành lập Đoàn Tuyên úy với Mục sư Tuyên úy Đoàn Mười là vị sĩ quan đầu tiên.
Thành lập trường học cho đồng bào thiểu số và sau này các Hội thánh lớn như Khánh-hội, Sài-gòn cùng mở các trường trung học, trường Ánh Sáng là trường thành công nhất ở Đà-nẵng dùng cơ sở củ của Trường Kinh Thánh. Sau đó có trường dạy nghề Tuyên Đức.
Vào năm 1957, Hội Đồng cũng quyết định mở một bệnh viện Tin Lành ở Sài-gòn. Dự án này không thực hiện được. Tuy vậy Mục sư Phạm Xuân Tín, với sự giúp đỡ của Hội Mennonite, đã mở một Chẩn Y Viện Tin Lành ở Nha-trang vào ngày 9 tháng 7 năm 1961. Sau đó một Trại dưỡng bệnh và một Trường đào tạo y tá được thêm vào. Vào năm 1965, Bệnh viện Tin Lành Pleiku được mở ra với sự tài trợ của Hội Mennonite. Cũng nên biết rằng Trại cùi Tin Lành Ban-mê-thuột đã được thiết lập vào năm 1951, Chẩn Y Viện Đà Lạt đã hoạt động trước đó cũng được bành trướng vào năm 1954. Khi Giáo sĩ Cadman về với Chúa vào ngày 7 tháng 12 năm 1948, ông dâng tất cả di sản của ông cho Hội thánh Tin Lành Việt Nam. Mục sư Lê Văn Thái phải vận động chính phủ giảm miễn thuế trên món tiền này để xây cất Cô nhi viện Hòn Chồng, trên mảnh đất 18 mẫu với sự trợ giúp của Hội Bảo Trợ Nhi Đồng Quốc Tế. Cơ sở này được khánh thành vào ngày 4 tháng 9 năm 1953 với các cô nhi con mục sư, truyền đạo (27 em) và con tín hữu (11 em). Sau đó ông bắt đầu mỡ trường trung tiểu học Bết-lê-hem và trường dạy nghề cũng trong khuôn viên của Cô nhi viện. Cũng nên biết là Giáo sĩ Cadman là một trong những nhà truyền giáo tiên phong ở Việt Nam, ông bà có một người con gái độc nhất qua đời lúc 12 tuổi được an táng ở nghĩa trang thành phố Hà-nội, bà về với Chúa và được an táng ở nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi Sài-gòn, còn ông thì được Tổng Liên Hội an táng ở nghĩa trang thành phố Đà Lạt, phía dưới mộ bia của ông có đề “Người Trung Tín Cho Đến Chết”
Sau 19 năm phục vụ Giáo hội dưới chức vụ Hội trưởng, qua thời Nhật chiếm đóng, Giáo sĩ bị giam cầm và sự tranh đấu dành độc lập tôn giáo đối với chính quyền miền Bắc và miền Nam nhất là những năm đầu của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Mục sư Lê Văn Thái từ nhiệm vào năm 1960, mặc dù có nhiều đại biểu yêu cầu ông ở lại. Mục sư Ông Văn Huyên cũng xin từ chức sau 30 năm làm Thư ký Giáo hội. Hội Đồng bầu Mục sư Đoàn Văn Miêng vào chức vụ Hội trưởng với sự phụ tá của Mục sư Phạm Xuân Tín.
Để thích ứng cho thời bình với khải thị bành trướng tầm hoạt động, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam gia tăng các chương trình huấn luyện để đào tạo mục sư cũng như các người hầu việc khác:
* Trường Kinh Thánh Đà Nẵng: Hội thánh Đà-nẵng mở lớp học Kinh Thánh tại tư thất các giáo sĩ mỗi ngày vào giờ nghỉ trưa bắt đầu từ năm 1919. Vào năm 1921, Trường Kinh Thánh Đà-nẵng được thành lập và nơi nầy đã trở thành trung tâm đẩy mạnh việc truyền giáo đến mọi nẻo đường trong xứ cũng như một phần lảnh thổ Cam-bô-chia và Lào. Số sinh viên bị giảm xuống thấp nhất vào niên khóa 1953-1954 với 18 người vì có lệnh động viên. Sau đó nhiều năm, số sinh viên dần dần gia tăng trở lại.
* Thánh Kinh Thần Học Viện Nha-trang: Được khánh thành vào tháng 9 năm 1960, trong năm đầu tiên có 85 sinh viên nội trú với 55 truyền đạo. Năm 1961-1962, có đến 110 sinh viên và 55 truyền đạo.
* Trường Kinh Thánh Đà-lạt và Ban-mê-thuột: Được thành lập để lo cho việc truyền giáo cho đồng bào thiểu số. Vào giữa thập niên 1950, trường Kinh Thánh Pleiku được mở cho người Jarai, nhưng vì ít người tham dự cho nên các sinh viên được chuyển xuống Ban-mê-thuột để học và nơi này được dùng để huấn luyện cho các Chấp sự Hội thánh.
* Thánh Kinh Tiểu Học Đường: Thánh Kinh Tiểu Học Đường (short term bible schools) đã có từ trước nhưng mãi đến năm 1958 mới được thông dụng và tổ chức đều đặn.
Vào năm 1955, Việt Nam có 3 trường Kinh Thánh, con số này tăng lên 6 trường vào năm 1958 , đến năm 1964, có tất cả 9 trường với tổng số sinh viên cao nhất là 214 vào năm 1962.
Năm 1951, Đài Viễn Đông tại Ma-ni-la bắt đầu chương trình phát thanh Tin Lành bằng Việt ngữ, sau đó chính phủ Việt-nam cũng cho phép phát thanh Tin Lành trên các đài địa phương.
Chương trình chứng đạo cá nhân cũng được đẩy mạnh, năm 1955, các chứng đạo viên đã tiếp xúc được trên 93.000 người, có gần 5.000 người cầu nguyện tin Chúa trên toàn quốc. Việc chứng đạo trong các trung tâm cải huấn Phan-rang, Phan-thiết, Chí-hòa, các tỉnh miền Nam và đảo Côn-sơn cũng đã mang nhiều tội nhân trở lại cùng Chúa.
Năm 1959, Giáo sĩ Sutherland thành lập Trung Tâm Thanh Niên Cơ Đốc tại Sài-gòn, sau đó các trung tâm ở Huế, Đà-nẵng, Tuy-hòa, Nha-trang, Biên-hòa, Cần-thơ cũng được mở ra. Thanh niên làm việc chung với các giáo sĩ, mục sư, rao giảng Tin Lành qua việc dạy Anh ngữ, chiếu phim tôn giáo, hội họp, làm chứng... Nhiều mục sư đã dùng thuyền để rao giảng dọc theo sông Cửu-long và các hệ thống sông ngòi miền Nam.
Khi chính phủ khởi xướng các Chương Trình Dinh Điền, nhiều gia đình tín đồ bị định cư cũng lợi dụng cơ hội nầy để làm chứng đạo cho các người định cư khác. Hội thánh cũng tổ chức các buổi truyền giảng tại các trung tâm tị nạn. Nhà in Tin Lành trong lúc nầy cũng nổ lực in các văn phẩm Cơ-đốc, truyền đạo đơn, các báo định kỳ như Thánh Kinh Báo (Thánh Kinh Nguyệt San), Đuốc Thiêng và Hừng Đông (Rạng Đông) đã mang đến cho tín đồ mọi nơi thức ăn tinh thần nuôi dưởng đời sống thuộc linh.
Số người cầu nguyện tin Chúa từ năm 1911 đến 1927 là 11.699 người, từ năm 1928 đến năm 1941 có 41.402 người, từ năm 1942 đến năm 1953 có 49.753 người, từ năm 1954 đến năm 1965 có 117.349 người, và từ năm 1966 đến năm 1970 có 69.385 người.
So với các quốc gia khác ở vùng Đông Nam Á, việc truyền giáo được bắt đầu vào năm 1813 ở Miến Điện, năm 1898 tại Phi Luật Tân, năm 1828 tại Thái Lan. Nam Dương và Mã Lai là hai quốc gia được biết đến Tin Lành từ thế kỷ thứ 17: Vào năm 1965, Việt Nam có 1.000.000 tín đồ Công giáo, 120.000 tín đồ Tin Lành (gồm tất cả các hệ phái), trong khi đó ở Cam-bô-chia có 734 tín đồ, Lào có 5.000 người, Thái-lan có 44.000 người, Mã-lai có 104.000 người, Nam-dương có 6.800.000 người, Phi-luật-tân có 1.243.000 người, và Miến-điện có 600.000 người.
VI. Kết luận.
Sau nhiều năm vận động, Hội Truyền Giáo Phúc-Âm Liên Hiệp đã được cho phép mỡ một văn phòng ở Tourane để lo cho việc giảng đạo cho các nước thuộc địa Pháp vùng Đông Nam Á vào năm 1911. Để thỏa mãn nhu cầu học hỏi Kinh Thánh của những người khao khát lời Chúa, Trường Kinh Thánh Tourane được thành lập vào năm 1921. Giáo hội cũng đã bầu ban chấp hành đầu tiên của Tổng Liên Hội và lễ mãn khóa đầu tiên của trường Kinh Thánh Đà-nẵng vào năm 1927. Năm sau, nội quy đầu tiên được chấp thuận làm căn bản cho các Hội thánh địa phương đến cấp trung ương. Các Hội thánh địa phương cố gắng hoạt động để tăng trưởng và trở thành độc lập trong ba bước: tự lập, tự trị và tự bành trướng. Trong khoản thời gian yên ổn tương đối từ năm 1927-1941, Giáo hội đã đạt được sự phát triển nhanh chóng mọi mặt, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam được tăng trưởng và càng được tự trị với Hội Truyền Giáo. Giáo hội cũng gởi giáo sĩ lên miền thượng du giảng đạo song song với các giáo sĩ C&MA.
Vào năm 1938, Mục sư Tiến sĩ Tống Thượng Tiết đến viếng Việt-nam và đã gây sự phục hưng trong nước, việc chứng đạo cá nhân được đẩy mạnh cho đến Thế Chiến Thứ Hai. Sự bành trướng của Giáo hội mạnh nhất ở miền Nam. Ở miền Trung dưới quyền của triều đình Việt Nam, hội thánh phát triển trung bình, nhiều tín đồ bị khó khăn và bắt bớ, ngoại trừ vùng tỉnh Quảng-nam đã phát triển mạnh mẽ, cung ứng nhiều mục sư cho toàn quốc. Ở miền Bắc, vì truyền thống gia đình và xã hội, với cùng một số nhân viên và ngân khoản, kết quả ở đây khiêm nhượng nhất.
Trong lúc thế giới được hưởng hòa bình sau khi Nhật và Đức đầu hàng, Việt-nam lại sa vào chiến tranh dành độc lập và sau đó là nội chiến tàn khốc. Nhiều mục sư và hàng trăm tín đồ bị giết, nhiều nhà thờ bị thiêu hủy và hàng ngàn tín đồ khác bị giam cầm. Sự tổn thất do chiến tranh gây ra đã làm nền tảng của giáo hội bị rung chuyển. Dưới sự lãnh đạo khéo léo của Mục sư Hội trưởng Lê Văn Thái, Giáo Hội đã dần dần phục hồi. Số tín đồ dần dần gia tăng bằng số trước Thế Chiến vào năm 1952. Hiệp định Genève năm 1954 trên nguyên tắc chấm dứt chiến tranh nhưng trên thực tế đã đưa đất nước đến những khủng hoảng chính trị, quân sự và kinh tế cho đến ngày nay.
bottom of page